Hiện nay tồn tại hai phương pháp tìm dụng thần Bát tự như sau:
- Dụng thần cách cục hay dùng cách cục để đoán mệnh
- Dụng thần cân bằng hay dùng sự cường nhược của Nhật can để đoán mệnh
Trước hết ta cần làm rõ khái niệm Dụng thần của hai phương pháp trên tuy đều gọi là Dụng thần nhưng ý nghĩa rất khác nhau. Bên truyền thống(1) luôn tìm Dụng thần trong nguyệt lệnh hay nói cách khác là xác định cách cục sau đó xem thành cách, bại cách, biến cách để phân tích mệnh lý không tồn tại cái gọi là Thông quan, điều hậu, phù ức... Bên tân phái(2) điển hình là phần bình chú Trích Thiên Thuỷ của Nhâm Thiết Tiều đời Thanh, và quyển Dự đoán theo tứ trụ của Thiệu Vĩ Hoa thì luôn tìm dụng thần để cân bằng mệnh cục, thân cường thì tiết bớt hoặc kiềm chế, thân nhược thì sinh phù hoặc giúp đỡ, thân quá yếu thì tòng theo bên mạnh, thân quá cường thì tòng theo cường.
Trong khuôn khổ bài này tôi chỉ nói đến Dụng thần truyền thống được nói đến qua các tác phẩm kinh điển: Uyên Hải Tử Bình, Tam Mệnh Thông Hội, Tử Bình Chân Thuyên, Trích Thiên Tuỷ.
Trong tất cả các kinh điển trước đời Thanh bao gồm: Uyên Hải Tử Bình, Tam Mệnh Thông Hội, Tử Bình Chân Thuyên, Trích Thiên Tuỷ đều tìm Dụng Thần trong nguyệt lệnh. Nghĩa là từ Nhật can xem sinh tháng nào từ đó xác định Thập thần thấu xuất trên các thiên can là thần nào để định cục, xem có Tướng thần sinh trợ cho cách cục hay không.
Ví dụ: Tân sinh tháng Dần, thấu Giáp là Chính Tài cách lại thấu Quý là cách Thực sinh Tài đại phú đại quý.
Dụng thần bao gồm thiện thần và ác thần. Thiện thần bao gồm: Tài, Quan, Ấn, Thực. Ác thần bao gồm: Sát, Thương, Kiêu, Nhận. Tuy phân ra thiện thần và ác thần nhưng nếu phối hợp tinh vi thì đều thành quý mệnh, không nên câu lệ vào câu chữ.
Dụng thần có các tính chất sau:
- Biến hoá: có biến thành tốt và biến thành xấu
- Thành bại: có thành cách hay không thành cách
- Cứu ứng: Nếu thành cách nhưng bị phá thì xem có cứu được hay không
- Thuần tạp: Nhiều quá thì tạp, ít thì thuần
Thế nào là biến hoá?
Đối với các địa chi tàng 2 hoặc 3 can thì phải chọn can thấu ra có lực làm Dụng thần. Biến tốt là Tân sinh tháng Dần, thấu Bính là hóa Tài thành Quan. Biến xấu là Tân sinh tháng Dần, thấu Tân hoặc Canh thành Tỷ Kiếp tranh Tài.
Thế nào là thành bại?
Thành là thành cách, bại là bại cách. Ví dụ: Giáp sinh tháng Dậu, thấu Tân là cách Chính Quan, thấu Kỷ là Tài, Tài sinh Quan là thành cách. Bại cách là: Giáp sinh tháng Dậu, thấu Tân là cách Chính Quan, thấu Đinh là Thương Quan, Thương Quan khắc Quan là bại cách
Thế nào là cứu ứng?
Giáp sinh tháng Dậu, thấu Tân là cách Chính Quan, thấu Đinh là Thương Quan, nhưng lại thấu Kỷ sẽ hoá giải được Thương Quan khắc Quan mà thành Thương Quan sinh Tài, Tài sinh Quan.
Thế nào là thuần tạp?
Một Quan là thuần, cả Quan và Sát đều thấu là tạp. Tương tự với Tài, Ấn, Thực.